Sáng kiến kinh nghiệm - Bản đồ tư duy Phương pháp giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập môn Ngữ văn 12

pdf
Số trang Sáng kiến kinh nghiệm - Bản đồ tư duy Phương pháp giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập môn Ngữ văn 12 23 Cỡ tệp Sáng kiến kinh nghiệm - Bản đồ tư duy Phương pháp giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập môn Ngữ văn 12 945 KB Lượt tải Sáng kiến kinh nghiệm - Bản đồ tư duy Phương pháp giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập môn Ngữ văn 12 0 Lượt đọc Sáng kiến kinh nghiệm - Bản đồ tư duy Phương pháp giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập môn Ngữ văn 12 10
Đánh giá Sáng kiến kinh nghiệm - Bản đồ tư duy Phương pháp giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập môn Ngữ văn 12
4 ( 13 lượt)
Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu
Đang xem trước 10 trên tổng 23 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên
Chủ đề liên quan

Nội dung

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM BẢN ĐỒ TƯ DUY PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH HỆ THỐNG KIẾN THỨC VÀ ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN 12 Mục lục Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………………………………2 B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI…………………………………………………….2 I. CƠ SỞ KHOA HỌC…………………………………………………………….2 1. Cơ sở lí luận……………………………………………………………...2 2. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………………...3 II. NỘI DUNG…………………………………………………………………….3 1. Lí thuyết về bản đồ tư duy……………………………………………….3 2. Cách thức chung…………………………………………………………4 3. Nội dung cụ thể…………………………………………………………..6 3.1 Đoạn trích Việt Bắc – Tố Hữu ………………………………….6 3.2 Tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân………………10 3.3 Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường ……………………………………………………………13 3.4 Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu………15 3.5 Thiết kế giáo án cụ thể…………………………………………..18 III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI …………………………………………………...22 C . ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI……22 D . TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………...23 A. ĐẶT VẤN ĐỀ Vào các năm gần đây, “Đổi mới phương pháp dạy học” là một cụm từ không hề xa lạ với ngành giáo dục nói chung và giáo viên đứng lớp nói riêng. Nó là một đòi hỏi cấp bách, một xu hướng tất yếu của các trường học. Tùy vào từng bộ môn và kinh nghiệm của bản thân mà mỗi giáo viên cần tìm tòi, áp dụng phương pháp mới vào giảng dạy nhằm giúp học sinh hứng thú và chủ động hơn trong học tập. Đồng thời, nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo của trường phổ thông, góp phần vào việc hình thành nhân cách phát triển toàn diện của học sinh. Những phương pháp mới không những giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức mà quan trọng hơn là giúp các em tự học để nắm vững kiến thức, tái hiện kiến thức và hoàn thành tốt bài thi. Có rất nhiều phương pháp mới giúp học sinh tích cực, hứng thú và nắm bài học một cách hệ thống như: Công thức, mô hình hóa, sơ đồ hóa (grap)…Trong các năm gần đây, sử dụng sơ đồ tư duy vào tất cả các lĩnh vực như Kinh doanh, Quản lí… Dạy và học cũng không ngoại lệ. Đã đọc nhiều tài liệu về Bản đồ tư duy về các lĩnh vực (đặc biệt là giảng dạy ở nhà trường), tôi thực hiện đề tài “Bản đồ tư duy- phương pháp giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập Ngữ Văn 12” để bổ sung một phương pháp có hiệu quả trong việc hệ thống kiến thức giúp học sinh tự ôn tập tốt hơn. B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI I. CƠ SỞ KHOA HỌC 1. Cơ sở lí luận - Tiến sỹ Huỳnh Công Minh Giám Đốc Sở GD-ĐT Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng “Ưu điểm của bản đồ tư duy là sẽ đem đến cho học sinh những lợi ích cụ thể trong quá trình học tập là nắm được nội dung cơ bản của bài học, hệ thống nội dung kiến thức và biểu thị bằng sơ đồ, ghi nhớ nội dung học tập một cách sâu sắc và bền vững” - Còn thầy Hoàng Đức Huy trong cuốn sách “Bản đồ tư duy đổi mới dạy học” thì cho rằng “Bản đồ tư duy là một công cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường Phổ Thông cũng như ở các bậc học cao hơn vì chúng giúp giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy nghĩ sáng tạo, học tập thông qua biểu đồ, tóm tắt thông tin của một bài học hay một cuốn sách… hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ, đưa ra ý tưởng mới…” Như vậy, sử dụng bản đồ tư duy hợp lí sẽ giúp cho học sinh rất nhiều trong việc nắm vững và khắc sâu kiến thức. 2. Cơ sở thực tiễn Hiếu học là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Hiện nay, ngoài việc học để tiếp thu kiến thức, các em học sinh còn phải trải qua các kì thi gay go: thi Tốt Nghiệp, thi Đại Học, Cao Đẳng…. Trong kì thi Tốt Nghiệp có hai hình thức: Ngoại ngữ, Sinh học, Vật lí, Hóa học thi với hình thức trắc nghiệm khách quan; còn Ngữ văn, Toán, Lịch sử, Địa lí thi với hình thức tự luận. Cùng với những môn Khoa học Tự Nhiên, những môn Khoa Học xã hội cũng có lượng kiến thức rất nhiều. Làm thế nào để học sinh hệ thống kiến thức, nắm vững kiến thức một cách khoa học, logich, tránh sự nhầm lẫn? Là một giáo viên đã cùng nhiều thế hệ học sinh trải những kì thi Tốt Nghiệp, tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp học sinh hệ thống kiến thức và ôn tập một cách tốt nhất? Đặc biệt là với đối tượng học sinh trường có đầu vào thấp như trường THPT Kiệm Tân. Đối với bộ môn Ngữ văn, học sinh không những phải chăm học mà còn phải có phương pháp học phù hợp mới có thể nắm vững kiến thức cơ bản. Một thực trạng đáng lo ngại trong quá trình ôn tập là khi giáo viên hỏi bài, học sinh đã nắm hầu hết kiến thức, nhưng khi kiểm tra lại thì học sinh đã quên hoặc có sự nhầm lẫn tai hại. Nhầm lẫn kiến thức của giai đoạn văn học này sang giai đoạn văn học khác, tác giả này với tác giả khác, thậm chí từ nhân vật này sang nhân vật khác… Khi sử dụng Bản đồ tư duy trong giảng dạy và hệ thống hóa kiến thức, tôi nhận thấy học sinh hứng thú, tích cực hơn so với các phương pháp khác. Tuy nhiên, khi thực hiện Bản đồ tư duy, giáo viên cũng cần kết hợp nhuần nhuyễn nhiều phương pháp để khai thác triệt tác dụng của phương pháp dạy học tích cực. II. NỘI DUNG 1. Lí thuyết về Bản đồ tư duy - Bản đồ tư duy còn gọi là Sơ đồ tư duy, Lược đồ tư duy…là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức…bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Có thể gọi bản đồ tư duy là công cụ ghi chú tối ưu. (Internet) - Bộ não của con người được coi là một thế giới bí ẩn. Não trái ghi nhớ các thông tin bằng các kí tự, đường thẳng, con số. Não phải giúp ta xử lí các thông tin về nhịp điệu, màu sắc, hình ảnh…Từ trước đến nay, chúng ta thường quen với việc ghi chép thông tin bằng từ ngữ, gạch đầu dòng, tóm ý…Như vậy, chúng ta chỉ sử dụng 50% khả năng của bộ não khi ghi nhận thông tin. Năm 1960, Tony Buzan đã nghiên cứu ra phương pháp Bản đồ tư duy (Mind Map), đã giúp con người tận dụng triệt để khả năng ghi nhận thông tin của bộ não. - Trong chương 8 cuốn sách “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế” của Adam Khoo có đề cập đến phương pháp giúp chúng ta có khả năng nhớ tốt hơn hay nói cách khác ghi nhớ tốt không phải là năng khiếu, tài năng. Adam Khoo khẳng định: “Không hề tồn tại trí nhớ tốt hay trí nhớ kém mà chỉ tồn tại trí nhớ được rèn luyện và trí nhớ không được rèn luyện. Mỗi người trong chúng ta đều sở hữu một trí nhớ phi thường tự nhiên mà chúng ta chỉ cần học cách tận dụng nó”. Trí nhớ bao gồm sự ghi nhớ (lưu trữ thông tin) và sự hồi tưởng (tìm lại thông tin). Sự ghi nhớ liên quan đến việc lưu trữ thông tin chúng ta nhận được vào bộ não. Sự hồi tưởng liên quan đến khả năng tìm lại thông tin đó khi cần thiết. Có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy khả năng lưu trữ thông tin của bộ não là hoàn hảo và không bị hao mòn theo thời gian. Điều này có nghĩa là mỗi từ ngữ, hình ảnh, mỗi âm thanh chúng ta lưu vào trí nhớ từ khi sinh ra được lưu giữ hoàn hảo nguyên vẹn ở một nơi nào đó trong trong bộ não. Vấn đề đáng quan tâm là khả năng hồi tưởng của chúng ta không hoàn hảo. Trí nhớ được tạo ra bằng cách liên kết từng mảng thông tin với nhau. Muốn nhớ tốt cần lưu ý đến các nguyên tắc cơ bản: sự hình dung, sự liên tưởng, làm nổi bật sự việc, sự tưởng tượng, màu sắc, âm điệu… Như vậy, theo rất nhiều tài liệu của các nhà nghiên cứu, muốn tận dụng triệt để khả năng ghi nhớ và khả năng hồi tưởng của bộ não chúng ta cần sử dụng cả não trái và não phải. 2. Cách thức chung Như đã nói ở trên, khối lượng kiến thức mà học sinh phải học mỗi ngày là rất lớn (đặc biệt là học sinh lớp 12) nhưng quỹ thời gian và sức khỏe có giới hạn. Mặt khác, xã hội ngày càng đòi hỏi con người sáng tạo. Vậy biện pháp nào giúp chúng ta giải quyết tình trạng này? Thực tế cho thấy, trong quá trình học tập khó ai có thể nhớ kĩ từng chi tiết, nhớ nguyên văn một cuốn sách hoặc một bài học dài. Có chăng là con người có thể nhớ một sơ đồ, một hệ thống, một công thức chung nhất nào đó của bài học. Vấn đề đặt ra là, giáo viên cần cung cấp cho học sinh một phương pháp phù hợp để học sinh tự học, tự hệ thống kiến thức. Sơ đồ tư duy sẽ đáp ứng tốt yêu cầu trên. Muốn nắm vững, nhớ sâu, vận dụng sáng tạo học sinh phải cùng giáo viên tìm tòi, xây dựng hệ thống bài học. Đã qua rồi thời kì đọc – chép, chiếu – chép, nhìn – chép…Vì vậy, giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách thực hiện sơ đồ mô phỏng kiến thức bài học. Đồng thời, giúp học sinh tư duy, sáng tạo, tận dụng khả năng ghi nhớ và hồi tưởng những kiến thức đã ghi nhớ. Hay nói cách khác, học sinh có thể thể hiện nội dung bài học theo cách của mình qua các từ khóa, từ chủ đề trung tâm đến các ý lớn đến các ý nhỏ. Khác với cách ghi chép thông thường, ở cách sử dụng màu sắc kích thích trí nhớ và sự hứng thú vì mỗi nhánh có một từ khóa kèm hình ảnh. Với một kĩ thuật hình họa có đường nét, có màu sắc có từ ngữ, hình ảnh được dựa trên sự tưởng tượng và kết nối, bản đồ tư duy giúp chúng ta tự do suy nghĩ và phát huy tiềm năng sáng tạo của bộ não. Học sinh không còn thụ động ngồi nghe giáo viên giảng bài rồi ghi bài một cách máy móc mà trái lại các em sáng tạo ra “tác phẩm” của riêng mình qua sự định hướng, gợi ý của giáo viên. Ngoài việc dùng bản đồ tư duy trong dạy và học, bản đồ tư duy còn giúp học sinh nâng cao năng lực tự học, tự kiểm tra. Vì sao phải sử dụng Bản đồ tư duy trong việc dạy, học và hệ thống kiến thức? Bản đồ tư duy sẽ giúp chúng ta sáng tạo hơn, tiết kiệm thời gian hơn, ghi nhớ tốt hơn, có thể nhìn thấy bức tranh tổng thể…Khi lập một bản đồ kiến thức, ngoài việc nhớ và hiểu kiến thức mới còn giúp chúng ta nắm kiến thức sâu, kĩ hơn. Dùng Bản đồ tư duy để dạy, giáo viên sẽ có một định hướng rõ rệt, một kế hoạch cụ thể nắm vững và trình bày những nội dung cơ bản một cách đơn giản hơn để học sinh dễ hiểu, dễ nắm bắt được tính hệ thống và mối quan hệ của những tri thức mà không rơi vào những chi tiết vụn vặt, thứ yếu hoặc không thấy rõ tính hệ thống của bài học. Quy trình lập bản đồ tư duy: - Trước hết, chúng ta bắt đầu bằng từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Sau đó, nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp hai đến các nhánh cấp một…bằng các đường kẻ (luôn sử dụng màu sắc vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh). Các đường kẻ càng gần hình ảnh trung tâm càng được tô đậm hơn, dày hơn. Khi chúng ta nối các đường với nhau, chúng ta có thể hiểu và nhớ nhiều hơn do bộ não chúng ta làm việc bằng sự liên tưởng. (các đường ở cùng một cấp độ phải có cùng màu sắc). - Lưu ý: Mỗi từ hoặc ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ. Nên dùng đường kẻ cong thay vì các đường thẳng vì các đường cong được tổ chức rõ ràng sẽ thu hút được sự chú ý của mắt nhiều hơn. Ngoài ra cần bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm. Hiện nay đã có rất nhiều phần mềm hỗ trợ vẽ bản đồ tư duy trên máy tính. Khi học sinh học trên lớp, chúng ta chỉ cần hướng dẫn cách vẽ sơ đồ. Các em chỉ cần dùng bút màu, giấy A4, …. - Ví dụ: Khi học bài Người lái đò sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân + Với phương pháp đặt câu hỏi phát vấn hoặc nêu vấn và giải quyết vấn đề, chúng ta có thể tìm hiểu từng nội dung theo các đoạn văn bản ở sách giáo khoa. Giáo viên có thể dùng câu hỏi: Đoạn văn “Hùng vĩ của Sông Đà….vừa tắt phụt đèn điện” miêu tả đá bờ sông như thế nào? Tác giả đã dùng nghệ thuật gì để khắc họa hình ảnh đó? Hình ảnh đó còn giúp em hình dung ra điều gì? Có thể nói, khi giáo viên đặt câu hỏi thì học sinh tìm các chi tiết từ văn bản ở sách giáo khoa (hoặc học sinh đã soạn trước ở nhà) rồi trả lời câu hỏi. + Với phương pháp dùng Bản đồ tư duy, giáo viên cũng có thể phát huy tính tích cực của học sinh bằng cách sử dụng các câu hỏi, đồng thời giúp học sinh nhớ kĩ và liên tưởng đến nội dung bài học mà không cần ghi chép quá nhiều. Cũng với đoạn văn trên, chúng ta có thể dùng câu hỏi: đoạn văn “Hùng vĩ của Sông Đà….vừa tắt phụt đèn điện” miêu tả hình ảnh gì của sông Đà? Hãy tìm một từ miêu tả hình ảnh ấy? Từ học sinh tìm được sẽ là “đá bờ sông”. Từ đó học sinh có thể tự tìm những chi tiết miêu tả đá bờ sông và triển khai theo các cấp độ. Chúng ta có thể vận dụng Bản đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hoặc hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương, mỗi kì…Trong bài viết này tôi muốn đề cập đến vấn đề giúp học sinh hệ thống hóa kiến thức bằng Bản đồ tư duy. 3. Nội dung cụ thể 3.1 Đoạn trích Việt Bắc – Tố Hữu Bài thơ Việt Bắc được viết vào tháng 10 năm 1954 giống như lời giã từ căn cứ địa cách mạng sau 15 năm gắn bó, bài thơ cũng mang tính chất của một bản tổng kết lịch sử nhằm khép lại một thời kì cách mạng và mở ra một thời kì mới. Cả bài thơ bao bọc trong nỗi nhớ nồng nàn tha thiết. Trong đoạn trích có đến 35 lần “nhớ” được nhắc đến. Điều này chứng tỏ nội dung cảm xúc chính của bài thơ là nỗi nhớ. Một nỗi nhớ hướng tới nhiều đối tượng cụ thể; vừa khác biệt vừa thống nhất với nhau. Đó là nỗi nhớ hướng tới ba đối tượng chính: + Nhớ Việt Bắc – quê hương cách mạng + Nhớ một thời kháng chiến gian khổ nhưng hào hùng + Nhớ công ơn của Đảng và Bác Hồ đã đưa dân tộc đi đến bến bờ thắng lợi. Bài thơ Việt Bắc được tổ chức dựa trên lời đối đáp của hai nhân vật hư cấu, một bên đại diện cho Việt Bắc một bên đại diện cho những người kháng chiến. Trong phút chia tay, kỉ niệm của thời kì kháng chiến được gợi nhắc, kỉ niệm nào cũng đẹp cũng có khả năng thanh lọc tâm hồn con người. Để đáp lại lời hỏi thảng thốt của Việt Bắc, người ra đi nói ngay nỗi nhớ đang tràn ngập trong lòng mình. Khi giới thiệu nội dung bài học cho học sinh, giáo viên đã phân tích khá rõ nét nỗi nhớ bao trùm đoạn trích. Trong nỗi nhớ Việt Bắc, nhà thơ khắc họa hình ảnh con người và thiên nhiên nơi đây. Ở đoạn thơ “Nhớ gì như nhớ người yêu….chày đêm nện cối đều đều suối xa”, từ “nhớ” lúc này mang sắc thái khẳng định dứt khoát cho thấy tình cảm sâu nặng của những người kháng chiến đối với quê hương cách mạng, cảm nhận đầu tiên của đoạn thơ chứa đựng một hình ảnh so sánh đáng chú ý “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Câu thơ không phải đang nói tới người yêu mà là nói tới nỗi nhớ đối với Việt Bắc. Tố Hữu ít viết về tình yêu trai gái nhưng điều đó không có nghĩa là cảm xúc trong thơ của ông không đạt tới độ ngất ngây, nồng nàn, chiếm trọn sự chú ý. Ông bàn vế vấn đề lớn: Những tình cảm về đất nước, về nhân dân. Khi thể hiện những vấn đề, những tình cảm ấy, ông đã nói bằng ngôn ngữ của một tình nhân say đắm nhất. Quả thực đằng sau câu thơ ta vẫn nhận ra nỗi nhớ dịu ngọt như nỗi nhớ nhung của của những người yêu nhau. Nỗi nhớ nhung ấy cứ lơ lửng ám ảnh hoài tâm trí của người đi thốt lên môt câu, nửa như cảm thán, nửa như nghi ngờ, nghi vấn chứa đựng một vẻ gợi cảm rất đặc biệt. Trong những dòng thơ tiếp theo những cảnh sắc thân thuộc của quê hương Việt Bắc được miêu tả rất sinh động: “Trăng lên đầu núi trăng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, Sông Đáy, suối Lê vơi đầy…” + Nhà thơ không tả cái gì đã tả, không tả cái gì thật chi tiết mà chỉ làm cái việc, nhắn gửi. Đối với người trong cuộc, chừng ấy cũng đủ khiến họ nhớ những khoảnh khắc cuối cùng đầy niềm xao xác: “Bếp lửa” có thể khiến tâm trí bỗng tác động, mọi người bên nhau sum họp khói cùng sương, có thể thức dậy cùng những bản làng chìm khuất sau mây mù. Cụm từ “Nhớ từng” được lập lại hai lần như muốn khẳng định rằng người đi không quên bất cứ sự vật nào, địa điểm nào… Như vậy, dù chúng ta có dùng phương pháp nào để triển khai bài học thì cũng phải khắc họa rõ nét nỗi nhớ của người về xuôi. Một nỗi nhớ mênh mông vô tận, ăm ắp trong lòng. Hoặc trong đoạn thơ “Ta về mình có nhớ ta…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” nhà thơ cũng khắc họa rõ nét tiếng nói cất lên ở đây là tiếng nói của người về xuôi tức là cán bộ cách mạng sắp phải xa Việt Bắc. Câu thơ đầu là một câu hỏi hướng về người ở lại. Câu hỏi này không cần câu trả lời vì đó là câu hỏi tu từ có chức năng đưa đẩy hoặc gắn kết lời đối thoại. Thiết nghĩ, chính câu hỏi này đã làm nổi bật lên tính chất hiển nhiên của nỗi nhớ - thứ tình cảm tha thiết mà người đi đã dành cho Việt Bắc nhằm đáp lại ân tình sâu nặng mà quê hương cách mạng đã giành cho mình: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Từ “hoa” được dùng trong câu thơ thật gợi cảm. Từ “hoa” muốn chỉ những loài hoa quen thuộc thường gặp ở núi rừng Việt Bắc. Trong nỗi nhớ nhung trìu mến của người đi, Việt Bắc đã trở thành một “xứ hoa”. Lúc này, cảm xúc của người đi đã được lắng lại trong suốt. Ấn tượng còn lại là một cái gì lung linh tươi tắn đầy gợi cảm. Phải chăng, hoa chính là thiên nhiên làm say đắm lòng người. Vẻ đẹp của hoa và người cứ hòa quyện tôn lên vẻ đẹp của Việt Bắc. Trong tám câu thơ, Tố Hữu đã tạo nên một một bức tranh tứ bình độc đáo về Việt Bắc: xuân - hạ - thu – đông. Mỗi bức tranh có một vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo. Nhưng điểm chung nhất là tác giả đã nhất quán khi sử dụng câu lục miêu tả thiên nhiên còn câu bát lại khắc hoạ con người. Phải chăng, tác giả đã khẳng định sự thống nhất giữa cảnh vật và con người. Có thể nói rằng, bức tranh tứ bình trong bài thơ đậm đà màu sắc cổ điển với tính chất cân xứng hoàn mĩ của nó: “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” Bức tranh thứ nhất nói về mùa đông song điều đáng chú ý là bức tranh không hề có cảm giác lạnh lẽo, hiu hắt. Trong bức tranh này, người đọc có thể nhận ra hình ảnh những bông hoa chuối tựa như những đốm lửa cháy bập bùng giữa nền xanh trầm tĩnh của rừng già. Nhà thơ đã dùng gam màu nóng nhằm tạo cảm giác ấm áp cho bức tranh mùa đông. Có lẽ nhà thơ đã coi Việt Bắc là quê hương thứ hai của mình nên dù đang giữa mùa đông cảnh vật cũng ấm áp lạ thường! Tuy vậy, bức tranh mùa đông ấy chỉ làm phong nền cho con người xuất hiện. Hình ảnh những người lao động hăng say, họ đang trong tư thế vận động đi lên phía trước, họ chinh phục thiên nhiên làm nên cuộc sống. Như vậy, thiên nhiên dù có đẹp, có hoành tráng bao nhiêu thì cũng không thể che lấp được con người, mà thực sự đang tôn thêm vẻ đẹp của con người. Cứ như thế, hết bức tranh mùa đông đến bức tranh mùa xuân và các bức tranh còn lại, nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ của mình về Việt Bắc. Nỗi nhớ hiển hiện khi chưa hề chia xa. - Khi ôn tập đoạn trích Việt Bắc, giáo viên yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ mô phỏng nỗi nhớ của người về xuôi đối với: Việt Bắc, cuộc kháng chiến ở Việt Bắc, công ơn của Đảng và Bác Hồ. 3.2. Tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân Học sinh đã làm quen với tác phẩm của Nguyễn Tuân từ năm lớp 11. Chắc hẳn các em sẽ không thể nào quên được cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” trong tác phẩm Chữ người tử tù của ông. Đến năm lớp 12, học sinh lại được tiếp cận tác phẩm Người lái đò sông Đà - một tác phẩm thành công không kém. Vẫn lối viết tài hoa nghệ sĩ ấy, song đối tượng không còn thuộc tầng lớp đài các “vang bóng một thời” nữa mà là những người lao động bình thường – chất “vàng mười của Tây Bắc”. Để tôn lên vẻ đẹp của người lao động trên sông nước, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng con sông Đà với hai nét tính cách nổi bật. Khi giáo viên triển khai tiết học, bằng phương pháp này hay phương pháp khác, học sinh cũng nắm được những nội dung cơ bản của bài học. Khi tiến hành ôn tập hoặc hệ thống hóa kiến thức, giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng triển khai theo sơ đồ tư duy. Có thể kèm theo câu hỏi giúp học sinh định hướng đúng các ý chính cần trả lời. - Ví dụ: Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng những hình tượng nhân vật nào? Hình tượng nhân vật ấy được thể hiện ra sao? Nhóm 1 trình bày hình tượng con sông Đà, nhóm 2 trình bày hình tượng người lái đò.
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.